Mở cửa thị trường mua sắm công trong TPP: Thách thức lớn nhất là cạnh tranh chân chính

27/10/2015

Nguồn ảnh-Tạp chí KTDB (Bộ KH&ĐT)

Mua sắm chính phủ (MSCP) là một trong những nội dung quan trọng lần đầu tiên được đưa vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) – “Hiệp định thế kỷ 21” vừa kết thúc đàm phán. Phóng viên Báo Đấu thầu đã có cuộc phỏng vấn bà Nguyễn Thị Thúy Hằng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trưởng Nhóm đàm phán Chương MSCP của Hiệp định TPP để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn nội dung của Chương này.

Phóng viên (PV): Hiệp định TPP gồm có 30 chương, trong đó có một chương về MSCP. Tại sao lại có chương này trong Hiệp định TPP và sự liên quan về lĩnh vực MSCP trong Hiệp định TPP là như thế nào, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng: Hiện nay, Việt Nam đã tham gia 10 hiệp định thương mại tự do (FTA) như: AFTA, ASEAN+, Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - Chile, Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam - EU... Từ trước tới nay, khi nói đến hiệp định FTA, người ta thường nhắc đến mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư... Trong tất cả các hiệp định mà Việt Nam đã ký, chưa từng có một hiệp định nào đề cập đến nội dung mở cửa thị trường MSCP. Không chỉ có MSCP, các hiệp định cũng chưa từng đề cập tới những vấn đề hoàn toàn mới như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước…

TPP được coi là “hiệp định của thế kỷ 21”. Đây là một hiệp định rất toàn diện, bao quát rất nhiều lĩnh vực, bao quát cả những lĩnh vực phi truyền thống. Vậy, câu hỏi đặt ra là tại sao MSCP lại có thể gắn liền với một hiệp định kinh tế? Đó là vì, MSCP thực ra cũng là một thị trường mà người mua khá đặc biệt, gắn liền với Nhà nước như cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước. Hiệp định truyền thống thường chỉ chú trọng tới tính thương mại thông thường, giữa doanh nghiệp và người dân với nhau. Còn lần này, TPP quan tâm cả tới mối quan hệ thương mại giữa “Chính phủ - doanh nghiệp/người dân” trong MSCP.

Đối với Việt Nam, việc mở cửa thị trường MSCP là hoàn toàn mới, cho đến thời điểm này mới chỉ xuất hiện ở TPP và FTA với EU. Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, các FTA thế hệ mới đều gắn liền với việc mở cửa thị trường MSCP. Hiệp định Mua sắm Chính phủ (GPA) trong WTO cũng được ký kết từ những năm 1994.

PV: MSCP là một lĩnh vực rất mới trong Hiệp định TPP. Vậy, bà có thể giới thiệu sơ qua một số nội dung chính của Chương MSCP trong TPP?

Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng: Trong các hiệp định, người ta gọi khái niệm “MSCP/mua sắm công” là “public procurement”, hoặc “government procurement”. Khái niệm này có thể hiểu nôm na là hoạt động đấu thầu, theo cách hiểu của pháp luật Việt Nam. Cũng như Luật Đấu thầu, Chương MSCP của Hiệp định TPP đưa ra các quy tắc, quy trình trong quá trình lựa chọn nhà thầu, tuy nhiên, ở mức độ yêu cầu cao hơn về tính công bằng, công khai, minh bạch. Việt Nam sẽ phải tổ chức lựa chọn nhà thầu trong khối nước tham gia TPP (đấu thầu nội khối) hoặc đấu thầu quốc tế cho phép các nước TPP tham dự thầu. Nguyên tắc cơ bản nhất của Chương MSCP là đối xử quốc gia và không phân biệt đối xử. Chủ đầu tư có nghĩa vụ đối xử với nhà thầu, hàng hóa Việt Nam và nhà thầu, hàng hóa của các nước thành viên nội khối TPP một cách công bằng. Nguyên tắc quan trọng thứ hai là không được sử dụng các biện pháp ưu đãi hàng hóa, nhà thầu trong nước cũng như bất kỳ biện pháp nào để gia tăng hàm lượng nội địa hoặc đưa ra các yêu cầu về chuyển giao công nghệ… Những nước đang phát triển như Việt Nam sẽ có thời gian chuyển đổi để thực hiện các nguyên tắc này. Ngoài ra, Chương MSCP khuyến khích đấu thầu qua mạng, chống tham nhũng trong đấu thầu…

Mỗi nước thành viên sẽ liệt kê cơ quan mua sắm, ngưỡng giá gói thầu mở cửa, danh mục hàng hóa, dịch vụ (kể cả dịch vụ xây dựng) thuộc phạm vi điều chỉnh của Chương này.

PV: Bà vừa đề cập đến yêu cầu đấu thầu nội khối TPP đối với Danh mục cơ quan mua sắm, hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh. Vậy, khi Hiệp định này có hiệu lực, các chủ đầu tư/bên mời thầu khi mời thầu có bắt buộc phải sử dụng nhà thầu, hàng hóa có xuất xứ từ các nước thành viên TPP, EU hay không?

Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng: Đây là một khả năng. Tôi lấy một ví dụ đơn cử ở Mỹ. Hiện nay, các nhà thầu Việt Nam không thể tham gia đấu thầu tại Mỹ, vì Việt Nam chưa từng ký một hiệp định nào với Mỹ liên quan tới MSCP. Mỹ chỉ cho phép nhà thầu từ các nước có hiệp định ký kết với Mỹ mới được tham dự thầu các gói thầu ở Mỹ. Đối với các gói thầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của các FTA mà Mỹ đã ký kết, Mỹ chỉ cho phép nhà thầu, hàng hóa trong nước tham gia đấu thầu.

Khi thực thi Hiệp định TPP và Hiệp định với EU, Việt Nam có hai sự lựa chọn đối với việc tổ chức lựa chọn nhà thầu các gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của hai Hiệp định này. Một là, chỉ cho phép nhà thầu nội khối TPP (bao gồm nhà thầu Việt Nam) và EU tham dự thầu và chỉ cho phép hàng hóa xuất xứ từ các nước thành viên của nội khối TPP, EU, nghĩa là chỉ cho phép hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam, Mỹ, Nhật, Úc, Canada, Mexico, Singapore, Peru, Chile, New Zealand, Malaysia, Brunei cộng với 28 nước EU. Đối với lựa chọn thứ hai, trong những trường hợp nhất định, gói thầu lớn và phức tạp, mà thấy rằng việc mở cửa ra ngoài nội khối này sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, thì Việt Nam hoàn toàn có thể lựa chọn đấu thầu quốc tế như hiện nay chúng ta vẫn đang làm.

Việc lựa chọn áp dụng đấu thầu nội khối chỉ cho phép nhà thầu, hàng hóa từ các nước nội khối TPP, EU tham gia, hay đấu thầu quốc tế cho phép tất cả các nước trên thế giới cùng tham gia thì sau này, các nhà hoạch định chính sách sẽ tính toán. Nhưng theo quan điểm của cá nhân tôi, luật, nghị định chỉ nên nêu nguyên tắc, trên cơ sở đó chủ đầu tư sẽ tự quyết định lựa chọn phương án phù hợp nhất cho mình.

PV: Theo bà, những gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh thì có thể yêu cầu lựa chọn nhà thầu, hàng hóa của các nước nội khối. Vậy, Việt Nam có thể đưa ra quy định là những gói thầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của hai hiệp định này thì được đưa ra yêu cầu tương tự như vậy không?

Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng:

Khi đấu thầu quốc tế, đương nhiên là không thể phân biệt đối xử như nêu thương hiệu, xuất xứ của một số nước, nhóm nước nhất định, bất kể là gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TPP hay EU hay không. Khi đấu thầu nội khối, chủ đầu tư hoàn toàn có thể đưa ra yêu cầu nhà thầu, hàng hóa xuất xứ nội khối TPP, EU.

Việc một gói thầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TPP và EU nhưng chủ đầu tư lại muốn áp dụng quy định của hai Hiệp định này để tăng cường hơn nữa tính công khai, công bằng, minh bạch, theo tôi là nên khuyến khích. Khi áp dụng hai Hiệp định này, đương nhiên sẽ có hai lựa chọn tương ứng về đấu thầu quốc tế hay đấu thầu nội khối với các yêu cầu về xuất xứ tương ứng mà tôi đã đề cập.

PV: Theo bà, việc Việt Nam tham gia TPP có tác động như thế nào đối với thị trường MSCP tại Việt Nam?

Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng: Theo tôi sẽ có cả tác động tích cực và tiêu cực.

Về mặt tích cực, tính cạnh tranh sẽ cao hơn, chất lượng hàng hóa sẽ tốt hơn. Hàng hóa xuất xứ từ 11 nước thành viên còn lại trong TPP, cộng với 28 nước thành viên trong EU sẽ có tính bổ sung cho hàng hóa Việt Nam, đa phần hàng hóa trong gói thầu mua sắm công chúng ta chưa sản xuất được, nếu có sản xuất được thì chất lượng hàng hóa từ khối nước đó cao hơn hẳn. Nhà thầu của họ cũng chuyên nghiệp hơn, năng lực cao hơn.

Cùng với đó, tình trạng “quân xanh”, “quân đỏ”, thông thầu cũng được hạn chế hơn. Nói một cách khác, tiền thuế của người dân được chi tiêu hiệu quả hơn. Nhà thầu nước ngoài họ không “hiền” như nhà thầu Việt Nam, họ sẵn sàng khởi kiện nếu thấy không được đối xử công bằng.

Nhà thầu Việt Nam còn có cơ hội vươn ra một thị trường mua sắm công rộng lớn. Có thể ngay tại thời điểm này chỉ một số ít nhà thầu có cơ hội này (chẳng hạn Viettel đã trúng thầu một số gói thầu ở nước ngoài), tuy nhiên trong tương lai 20, 30 năm nữa, cùng với sự lớn mạnh của nhà thầu trong nước tôi nghĩ cơ hội này sẽ mở rộng hơn.

Đi kèm với mặt tích cực là tiêu cực. Khả năng thắng thầu của các nhà thầu Việt Nam trong thị trường MSCP ngay trên “sân nhà” cũng sẽ bé lại, điều này sẽ ảnh hưởng tới công ăn việc làm, thị phần của doanh nghiệp trong nước trong thị trường MSCP. Chúng ta cũng không được đưa ra các chính sách để ưu tiên mua hàng trong nước, khuyến khích phát triển các ngành sản xuất trong nước. Nhập siêu cũng sẽ ảnh hưởng tới cán cân thanh toán…

Tuy nhiên, do chúng ta đã đàm phán được lộ trình tương đối dài, mở cửa từ từ, bắt đầu từ những gói thầu có giá trị rất lớn, có thời gian quá độ để ưu tiên hàng hóa, nhà thầu trong nước nên theo tôi, ảnh hưởng tiêu cực có thể được hạn chế đến mức thấp nhất.

Về lâu dài, khi thời kỳ chuyển đổi đã qua, nếu nhà thầu Việt Nam vẫn ì ạch, không chịu vươn lên, vẫn chờ đợi vào “quan hệ”, “dựa dẫm” thì sẽ chẳng còn miếng bánh nào để dành cho họ cả. Thách thức là rất lớn, nhưng cơ hội cũng rất nhiều. Mà thách thức lớn nhất, theo tôi, đó là nhà thầu Việt Nam phải cạnh tranh chân chính.

PV: Chân thành cảm ơn Bà!

Bích Thủy (thực hiện)